NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP HỘI
CHỨNG CONN
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: U vỏ thượng thận (Adenoma Conn)
bài tiết Aldosteron là nguyên nhân chính của cường Aldosteron nguyên
phát, thường chiếm 60% trường hợp. Hội chứng Conn được báo cáo đầu tiên bởi
Conn vào năm 1955 với các triệu chứng lâm sàng là tăng huyết áp kéo dài, giảm
kali máu, tiểu nhiều, yếu cơ. Khối u bài tiết Aldosteron thường có kích thước
dưới 2 cm, lành tính, có vỏ bọc bên trong màu vàng. Thường gặp ở phụ nữ hơn là
nam giới, chỉ định phẫu thuật cắt khối u là bắt buộc. Sau mổ các triệu chứng
lâm sàng và sinh hóa trở lại bình thường. Trường hợp lâm sàng: chúng
tôi tiếp nhận một bệnh nhân nữ 31 tuổi với tình trạng tăng huyết áp và hạ kali
máu do u tuyến thượng thận một bên tăng tiết Aldosteron.
I. MỞ ĐẦU
Các
biểu hiện lâm sàng của cường Aldosteron tiên phát được Conn mô tả đầu tiên vào
năm 1956. Bệnh xuất hiện do u tế bào tuyến của vỏ thượng thận (lớp cầu) tăng
tiết Aldosteron. Đa số các trường hợp là khối u thượng thận một bên, hiếm khi
gặp hai bên hoặc ung thư. Bệnh gặp ở nữ giới gấp 2 lần nam giới tuổi từ 30 đến
50, chiếm 0,05-2 % nguyên nhân tăng huyết áp. Hội chứng Conn là nguyên nhân thứ
3 gây tăng huyết áp thứ phát sau hẹp động mạch thận và Pheochromocytoma. Hội
chứng Conn được đặc trưng bởi tăng huyết áp, bài tiết nhiều kali niệu, hạ kali
máu, kiềm chuyển hóa, đôi khi có liệt 2 chi dưới. Chúng tôi mô tả một trường
hợp Hội chứng Conn
được phát hiện tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa và điều trị phẫu thuật
thành công.
II. BỆNH ÁN
Bệnh nhân: LÊ T. Q. H. Sinh năm 1983 Giới tính: Nữ.
Địa chỉ: Nha
Trang – Khánh Hòa.
Số vào
viện: 201443083 Ngày vào viện: 10/8/2014
Bệnh nhập viện
khoa Nội tổng hợp thần kinh và chuyển khoa Ngoại tổng hợp với chẩn đoán Tăng
huyết áp vô căn/ Theo dõi U tuyến thượng thận trái.
1.
Bệnh sử: bệnh nhân vào viện vì đau đầu, ít ngủ, chuột rút kéo
dài trên 1 năm
Ghi nhận lúc vào
viện:
Mạch 90 lần/phút;
Huyết áp 180/100 mmHg; Nhịp thở 20lần/phút; Nhiệt độ 37 độ C
2.
Tiền sử: Mổ đẻ 18 tháng, có Tăng huyết áp thai kỳ. Được chẩn
đoán Tăng huyết áp vô căn kèm hạ Kali máu và điều trị thường xuyên với
Amlodipin 10mg x 01v/ngày và Kaldium 0.6g x 4v/1 ngày. Tình trạng tăng huyết áp
và các hạ Kali máu không đáp ứng với điều trị.
3.
Các xét nghiệm chẩn đoán:
Công thức máu: Bạch
cầu 5.15 K/uL, Trung tính: 2,43 K/uL, Hồng cầu 4.26 M/uL, Hgb 11,8 g/dL, Hct
33,8%, Tiểu cầu 279 K/uL.
TQ 14,1’’; TCK
31’’. Nhóm máu A; Rh dương tính; HIV âm tính; HbsAg âm tính
Bệnh nhân được
bổ sung các xét nghiệm:
Ngày 03/11/2014:
Aldosterone/ máu: 21,78 (2,5 – 31,5 ng/dL)
(Trị số bình
thường: vị thế đứng 2,5 – 31,5; vị thế nằm 1,3 – 16 ng/dL)
Kali: 1,85;
Natri: 138,8; Chlor: 102,4; Calci 4,4 (mEq/L)
Bệnh nhân được
làm Tét muối và xét nghiệm lại Aldosteron máu vào ngày 10/11/2014 với kết quả:
tăng Aldosterone/ máu: 33,26 (2,5 – 31,5 ng/dL).
Ngày 18/12/2014:
Cortison (sáng 7-9h): 4,86 (6,2 – 19,4 µg /dL)
Cortisol/urine
215,6 (21 – 143 µg/24h); Thể tích nước tiểu/24h 3540mL
Hội chẩn với Nội
tiết chẩn đoán U tuyến thượng thận trái tăng tiết Aldosterone chưa loại trừ
Cortison và đề nghị xét nghiệm Cortison lại sau khi làm test Dexamethasone liều
thấp: Dexamethasone 0,5mg x 4 uống mỗi 6 giờ trong 2 ngày. Bắt đầu uống từ 6
giờ sáng, sau 2 ngày thử lại Cortison 8 giờ sáng. Kết quả Cortison (sáng 7-9h): 0,7 (6,2 – 19,4 µg
/dL).
Adrenalin niệu:
5,6 µg/24h (<20); Nor-Adrenalin niệu: 53,6 µg/24h (<90); Dopamin niệu: 140 µg/24h
(<600); Catecholamin niệu: 199,2 µg/24h (<710)
Renin
(Angiotensin I): 15,3 ( vị thế đứng: 7,54 – 42,3; vị thế nằm: 4,66 – 31,9 ng/L)
Metanephrine huyết tương: 5,53
(<90pg/mL)
TSH 3,83uIU/ml, TT3 0,9 ng/mL, TT4
6,16 ug/dL
Urê máu:
23 mg/dl (20 – 40); Creatinin máu: 0,7 mg/dl (0,7 – 1,5);
eGFR (MDRD)
>= 60 ml/ph/1,73m2 (>= 60)
Glucose: 5.2
mmol/l; GOT/ASAT 17; GPT/ALAT 15 (<40 U/L)
Nước tiểu 10
thông số: Kết quả bình thường.
Điện tâm đồ: Có
hình ảnh hạ Kali máu.
Siêu
âm bụng: Không phát hiện bất thường trên siêu âm.
Siêu âm Doppler
động mạch thận 2 bên: Chưa ghi nhận bất thường
Siêu âm tim:
Trong giới hạn bình thường (EF Teichholz = 75%).
Chẩn đoán: Hội
chứng Conn/ theo dõi u tuyến thượng thận trái.
Ngày 16/12/2014 CT
bụng có thuốc cản quang: sát chân tuyến thượng thận trái có sang thương đậm độ
cản quang kém, đồng nhất, giới hạn rõ, bờ khá đều. Tổn thương chậm bắt cản
quang, khá đều trong và sau khi bơm thuốc, kích thước # (12x16x21)mm. Kết luận:
theo dõi bướu dạng nang sau phúc mạc bụng trái, chẩn đoán phân biệt với u tuyến
thượng thận trái.
Hình 1. Hình ảnh CT có
thuốc cản quang của khối u cạnh tuyến thượng thận trái
4. Điều trị trước mổ: Sau
khi có kết quả xét nghiệm Aldosterone máu bệnh nhân được ngưng sử dụng thuốc
Amlodipine và điều trị thay thế bằng: Aldactone 50mg/1 viên x 2 lần/ngày, Kaleoride
0,6g x 2v x 3 lần/ngày.
5. Chẩn đoán:
Hội chứng Conn/ U tuyến thượng thận trái
6. Phẫu thuật: Bệnh nhân được phẫu thuật ngày 06/01/2015
Phương pháp mổ: Nội soi
sau phúc mạc cắt u tuyến thượng thận trái
Tường trình phẫu
thuật: nội soi sau phúc mạc bóc tách bộc lộ rõ thận và tuyến thượng thận trái.
Tìm thấy và lấy ra 01 khối u cạnh trong
dưới tuyến thượng thận trái, u có dạng hình cầu, u bở, màu vàng nghệ, đường
kính 10mm, gởi u làm giải phẩu bệnh lí.
Hậu phẫu ổn
định, giảm đau đầu. Không chảy máu sau mổ. Bệnh nhân hồi phục nhanh. Sau mổ
tiếp tục dùng thuốc hạ huyết áp Aldactone trong 3 ngày đến khi huyết áp về bình
thường. Xét nghiệm máu ngày 9/1/2015: Kali 3,8; Natri 139;
Calci 1.21 mmol/L.
Hình 2. Hình ảnh trong mổ
và hình ảnh đại thể khối u tuyến thượng thận trái.
7. Tái khám
Tái khám ngày 27/1/2015:
Mạch 80 lần/phút, Huyết áp 130/80 mmHg, các triệu chứng như: đau đầu giảm, mệt
mỏi giảm, không còn triệu chứng chuột rút. Kali 4,3 ( 3,5 – 5); Natri 135; Ure
máu 5,4 mmol/L; Creatinin 71 µmol/L. Siêu âm
bụng bình thường.
Tái khám ngày
30/3/2015: Mạch 76 lần/phút, Huyết áp 120/80 mmHg, không đau đầu, không mệt
mỏi, không còn triệu chứng chuột rút. Kali 4,5; Natri 135; Calci 2,5 (mmol/L); Ure
máu 4,6 mmol/L; Creatinin 69 µmol/L. ECG: nhịp tim 68 lần/phút, nhịp xoang đều.
Siêu âm bụng bình thường.
III. BÀN LUẬN
Ngoài u lành
tính ( Adenoma Conn) gây cường Aldosteron còn có nguyên nhân thứ 2 là loạn
sản vỏ thượng thận hai bên cũng gây cường Aldosteron, loại này thường chiếm tỉ
lệ 20 đến 40% đôi khi CT scan có thể thấy bình thường hay phì đại nhiều hay ít
ở hai bên tuyến thượng thận, thường có chỉ định điều trị nội khoa. Ngoài ra còn
có nguyên nhân khác là carcinoma tuyến thượng thận cũng gây cường Aldosteron,
loại này rất hiếm gặp, chẩn đoán phân biệt với adenoma Conn thường rất dễ vì
hình ảnh CT scan khối u lớn, u bài tiết ngoài Aldosteron còn bài tiết Cortison
và Andogen sinh dục.
Ngoài các triệu
chứng lâm sàng cao huyết áp, yếu cơ, đa niệu, hạ kali máu, tăng kali niệu việc
chẩn đoán hội chứng Conn còn dựa vào những tiêu chuẩn hormon như tăng Aldosteron
máu đồng thời với hạ Renin huyết tương. Tất
cả các bệnh nhân nghi ngờ cường Aldosteron nguyên phát cần được làm xét nghiệm
đo nồng độ Aldosteron. Xét nghiệm này nên được làm vào buổi sáng lúc 8-10 giờ,
khi làm xét nghiệm bệnh nhân không được đứng nhiều trước đó. Xét nghiệm này có
thể được tiến hành trong khi bệnh nhân vẫn đang dùng các thuốc hạ huyết áp trừ
thuốc kháng Aldosteron. Vì các thuốc kháng Aldosteron có thể ảnh hưởng đến kết
quả xét nghiệm nên cần được ngừng thuốc ít nhất 6 tuần trước khi làm xét
nghiệm. Thực tế Adenoma Conn tự động bài tiết Aldosteron, sự bài tiết này không
kích thích bởi thay đổi tư thế (tăng bài tiết Aldosteron do sự gia tăng giải
phóng Renin). Bài tiết Aldosteron không bị kìm hãm bởi test muối và thuốc ức
chế men chuyển (Captopril). Ngược lại, trong loạn sản vỏ thượng thận sự bài
tiết Aldosteron được điều hòa bởi hệ thống Renin-Angiotensin và như vậy sự bài
tiết Aldosteron phụ thuộc vào thay đổi tư thế, tét muối và thuốc ức chế men
chuyển. Trường hợp chúng tôi phải kiểm tra lại nồng độ Aldosterone máu tăng sau
khi làm test muối, ngoài ra nồng độ các hormon khác như Cortisol, Renin đều
bình thường.
Chụp cắt lớp
thượng thận có thể thấy các u thượng thận với kích thước khác nhau. Tuy nhiên,
nhiều trường hợp thấy tuyến thượng thận bình thường hoặc chỉ dày nhẹ một bên. Đôi
khi để xác định bên nào bài tiết Aldosteron, người ta có thể lấy máu từng bên
tĩnh mạch thượng thận để định lượng Aldosteron và định hướng cho phẫu thuật.
Mục tiêu điều
trị hội chứng Conn là dự phòng tỉ lệ chết liên quan đến tăng huyết áp, hạ kali
máu và các biến cố tim mạch. Vì nguyên nhân là cường Aldosteron tiên phát nên
điều trị lí tưởng nhất là làm cho Aldosteron máu trở về bình thường. Điều trị
ngoại khoa là chỉ định bắt buộc nếu có Adenoma thượng thận hoặc thấy phì đại
thượng thận một bên. Phương pháp điều trị mổ nội soi cho kết quả rất tốt. Hầu
hết huyết áp bệnh nhân đều được cải thiện rõ rệt sau phẫu thuật. Những người
còn tồn tại tăng huyết áp sau phẫu thuật thường là những người lớn tuổi, người
có nồng độ creatinin máu tăng, người sử dụng > 2 thuốc hạ áp trước phẫu
thuật hoặc người có kèm tăng huyết áp nguyên phát. Cần phải bù kali hoặc dùng
kháng Aldosteron trước phẫu thuật để tránh các tai biến của phẫu thuật, sau mổ
2 ngày định lượng lại nồng độ Aldosteron máu, theo dõi nồng độ kali hàng tuần
trong vòng 4 tuần sau phẫu thuật.
IV. KẾT LUẬN
Tăng Aldosteron nguyên phát ảnh hưởng đến 5-13% bệnh nhân tăng huyết áp.
Bệnh nhân tăng huyết áp kết hợp hạ kali máu không đáp ứng điều trị với thuốc
tăng huyết áp nên được tầm soát bệnh tăng Aldosteron nguyên phát với xét nghiệm
nồng độ Aldosteron và Renin máu kết hợp với CT scan bụng có cản quang để tầm soát khối u của tuyến thượng thận.
Chân
thành cảm ơn quý đồng nghiệp tại Bệnh viện Bình Dân và Bệnh viện đại học Y dược
Tp Hồ Chí Minh.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
1. Trương Thị
Bích Phượng, Nguyễn Tấn Bá (2012), “ Nhân một trường hợp Hội chứng Conn được
chẩn đoán và điều trị thành công tại Bệnh viên đa khoa trung ương Quảng Nam”, www.bvtwqn.vn
2. Đỗ Trung
Quân, Vũ Bích Nga, “ Cường aldosteron tiên phát - Bệnh nội tiết chuyển hóa”, Nhà
xuất bản giáo dục Việt Nam (2011), trang. 357- 361.
3. Nguyễn Đình
Vũ (2009), “ Hội chứng Conn”, Website www.tietnieuthanhochue.com
4. Barrett P. K.
M., Rees J. R., Marrack D. (1959), “ Case of conn’s syndrome”, British medical
journal, pp.1047-1052.
5. Blumenfeld JD,
Sealey JE,
Schlussel Y.
et al(1994), “ Diagnosis and treatment of primary hyperaldosteronism”, Ann.
Intern. Med., 121, pp. 877-885.
6. Gordon A.
Williams, Robert G. Dluly, “ Disorders of the Adrenal Cortex”, Harrison’s 17th
(2008), pp. 2247-2268.
7. Ismail F.,
Lockhat Z., Ellemdin S., van de Linde L. (2008), “ Conned by Conn’s syndrome”,
SA journal of Radiology.
8. Ng L,
Libertino JM.
(2003), “Adrenocortical Carcinoma : diagnosis, evaluation and treatment”, J
Urol, 169, pp. 5-11.
9. Reneth L.
Becker, “ Principles and practice of Endocrinology and Metabolism”, Copyright 2001 by Lippin Cott Williams and
Willkins, Philadenphia, PA 19106 USA, pp. 1207-1219.
10. Wajchenberg
BL, Albergaria
Pereira MA, Medonca BB
et al (2000), “ Adrenocortical carcinoma: clinical and laboratory
observations”, Cancer, 88(4), pp.711-36.
11. William F.
Young, Jr. (2003), “Minireview: primary Aldosteronism-changing concepts in
diagnosis and treatment”, Endocrinology 144(6), pp. 2208-2213.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét