SINH THIẾT TUYẾN TIỀN LIỆT 12 MẪU qua trực tràng dưới
hướng dẫn của siêu âm đã được thực hiện ở nhiều bệnh viện lớn trong cả nước.
Dưới hướng dẫn của siêu âm qua trực tràng,bác sĩ có thể lấy được nhiều mẫu sinh
thiết nghi ngờ, và hạn chế các tai biến có thể xảy ra một cách tối đa.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Có nhiều báo cáo trong y văn xem sinh thiết 12 mẫu là sinh thiết
chuẩn để tầm soát ung thư tiền liệt tuyến. Nên chúng tôi giới thiệu những kinh
nghiệm đầu tiên khi bắt đầu sinh thiết tiền liệt tuyến 12 mẫu tại bệnh viện
chúng tôi.
Phương pháp: Có 41 bệnh nhân được chỉ định sinh thiết tiền liệt tuyến vì PSA cao
(> 4 ng/ml) và/hoặc vì thăm trực tràng có bất thường. Chúng tôi tiến hành
sinh thiết mỗi bên 3 mẫu như trong sinh thiết 6 mẫu, sau đó sinh thiết thêm mỗi
bên 3 mẫu nữa về phía ngoại vị của tiền liệt tuyến.
Kết quả: Phát hiện được ung thư trong 9 trường hợp (17,07%), có 1 trường hợp
high-grade PIN và 1 trường họp chảy máu trực tràng đáng kể, 1 trường họp tiểu
máu đáng kể. Có 15 trường hợp nằm viện chờ đến khi có kết quả (7 ngày), các
trường hợp còn lại nằm viện 1 ngày để theo dõi.
Kết luận: Biến chứng nhiễm trùng và biến chứng chảy máu trong sinh thiết 12 mẫu
là thấp. Sinh thiết tiền liệt tuyến qua trực tràng 12 mẫu là khả thi trong bệnh
viện của chúng tôi.
Từ khoá: Sinh thiết tiền liệt tuyến; Sinh thiết 12 mẫu tiền liệt tuyến;
Sinh thiết 12 mẫu tiền liệt tuyến qua siêu âm trực tràng
ABSTRACT
TRANSRECTAL EXTENDED 12-CORE PROSTATE
BIOPSY AT BINH DAN HOSPITAL
Objective: To show our preliminary experiences over extended 12-core prostate
biopsy method in our hospital.
Methods: This study included 41 patients who underwent extended 12-core
biopsy. Inclusion criteria for prostate biopsy were elevated serum PSA levels
(>4.0 ng/ml) and/or suspicious digital rectal examination (DRE). We acquired
3 cores from each side like sextant biopsy and another 3 additional cores from
each side more peripheral than a 6 core.
Results: Cancer was detected in 09 (17.07%), and one case with high- grade
PIN. There was one case of strong hematuria (2.43%) and strong rectal
bleeding. There were 15 cases who were hospitalized for 7 days for waiting the
result, and 26 patients who were hospitalized one day for follow-up.
Conclusion: Our infection and rectal bleeding
complications associated with extended 12-core transrectal ultrasound-guided
prostate biopsy were low. Extended 12-core prostate biopsy is feasible at our
hospital and increases the detection rate of prostate cancer.
Key words: TRUS; Transrectal prostate biopsy; 12 core prostate biopsy; Extended prostate biopsy
Key words: TRUS; Transrectal prostate biopsy; 12 core prostate biopsy; Extended prostate biopsy
GIỚI THIỆU
Sử dụng một cách rộng rãi PSA và sinh thiết qua ngã trực tràng làm gia tăng
tần suất phát hiện ung thư tuyến tiền liệt ở giai đoạn sớm(10). Kể
từ khi Hodge và cs(7) áp dụng sinh thiết tuyến tiền liệt 6
mẫu trong sinh thiết tuyến tiền liệt thì phương pháp này được áp dụng trong một
thời gian dài. Tương tự ở Việt Nam sinh thiết tuyến tiền liệt cũng bắt đầu bằng
6 mẫu, như tại Trung tâm Medic qua ngã tầng sinh môn 6 mẫu, tại bệnh viện Bình
Dân chúng tôi cũng bắt đầu sinh thiết 6 mẫu qua ngã trực tràng kể từ năm 2006.
Nhưng có nhiều báo cáo gần đây, sinh thiết 6 mẫu không đủ phát hiện ung thư(1),
và khuyến cáo nên sinh thiết nhiều mẫu hơn mà cụ thể là sinh thiết 12 mẫu mở
rộng làm gia tăng sự phát hiện ung thư hay độ chính xác điểm Gleason(5).
Như Eichler và cs tham khảo y văn để so sánh dựa trên tiêu chí sự gia tăng phát
hiện ung thư và những biến chứng liên quan tới sinh thiết kết luận rằng khi
sinh thiết thêm 6 mẫu nữa so với 6 mẫu truyền thống làm gia tăng tỷ lệ phát
hiện ung thư thêm 31% và sinh thiết nhiều hơn 12 mẫu là không cần thiết, và tỷ
lệ biến chứng không gia tăng khi tăng thêm mẫu(4).
Tại bệnh viện Bình Dân chúng tôi đã áp dụng phương pháp sinh thiết 6 mẫu
như truyền thống, qua tham khảo một số tạp chí cũng như những hướng dẫn trên
thế giới sự cần thiết của phương pháp sinh thiết 12 mẫu qua ngã trực tràng. Nên
chúng tôi mạnh dạn thực hiện phương pháp này kể từ tháng 6 năm 2009.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Kể từ tháng 6 năm 2009 đến cuối tháng 9 năm 2009, có 41 bệnh nhân được chỉ
định sinh thiết tuyến tiền liệt vì PSA cao hay vì thăm trực tràng có bất
thường.
Kháng sinh phòng ngừa: kháng sinh ciprofloxacine 500 mg 1 viên sáng 1 viên chiều
và Flagyl 250 mg 2 viên sáng 2 viên chiều trước sinh thiết 24 giờ. Thụt tháo
bằng Fleet enema lúc 8 giờ sáng hôm sau.
Tư thế bệnh nhân nằm nghiêng sang bên trái, gối co vào bụng. Sử dụng máy
siêu âm Logic 5 Pro
Gây tê bằng: 4 ống lidocain 2% 2 ml pha loãng với 5 ml nước cất, thuốc tê
được tiêm vào mô xung quanh tuyến tiền liệt bắt đầu từ mỏm đến 2 thùy bên và
đặc biệt nhiều thuốc tê hơn vào chỗ tiếp giáp giữa túi tinh và tiền liệt tuyến.
12 mẫu được lấy theo mô hình như sau
Hình 1 Sơ đồ sinh thiết tuyến tiền liệt 12 mẫu qua trực tràng
Sau sinh thiết bệnh nhân được cho nằm viện 1 ngày để theo dõi các biến
chứng có thể có
KẾT QUẢ
Tuổi trung bình là 70,17, PSA trung bình trước sinh thiết là 33,08 ng/ml
(min = 2,45; max= 479,65). Kích thước trung bình của tuyến tiền liệt là: 38,29
gram. Chỉ định vì PSA cao : 40 trường hợp, trong đó chỉ định vì thăm trực tràng
có bất thường 1 trường hợp. Chỉ có gây tê 35 trường hợp và có gây tê + tiền mê
7 trường hợp. Tỷ lệ phát hiện ung thư là: 9 carcinoma , 1 sarcoma và
1 trường hợp high- grade PIN
Biến chứng sau sinh thiết: không có trường hợp nào chảy máu trực tràng đáng
kể: 1 trường hợp kéo dài 3 ngày và tiểu máu kéo dài: 2
trường hợp kéo dài 2 ngày.
Biểu đồ 1 Phân bố bệnh nhân theo tuổi
Trong đó ta có phần lớn bệnh nhân được chỉ định sinh thiết khi PSA > 10
Bảng 1 phân bố bệnh nhân, ung thư và chỉ số PSA
PSA
(ng/ml)
|
Số lượng
bệnh nhân
|
Số lượng
ung thư
|
<4
|
1
|
1 (sarcoma
cơ trơn)
|
4-10
|
6
|
0
|
>10
|
34
|
9
|
Biểu đồ 2 Tỷ lệ phần trăm của bướu lớn hay nhỏ hơn 50 gram
Biểu đồ 3 Phân bố ung thư theo Gleason score
BÀN LUẬN
Sinh thiết tuyến tiền liệt qua hướng dẫn siêu âm vẫn là xét nghiệm chuẩn
cho chẩn đoán sớm ung thư tuyến tiền liệt. Sinh thiết 6 mẫu theo mặt phẳng trước-sau
lần đầu tiên được giới thiệu bởi Hodge và cs(7). Tuy nhiên có những
nghiên cứu gần đây cho thấy sinh thiết như vậy vẫn chưa đủ. Năm 1995 Stamey và
cs(11) đề nghị sinh thiết vẫn là 6 mẫu nhưng nghiêng về phía
ngoại biên của tuyến tiền liệt, để có những mẫu hơn của vùng ngoại
vi nơi thường có ung thư. Tuy nhiên ngay cả có cải tiến như vậy nhiều tác giả
thấy về lâm sàng còn sót tới 34% các trường hợp ung thư, và nên lấy nhiều mẫu
hơn để tăng khả năng phát hiện ung thư.
Về kỹ thuật: Chúng tôi áp dụng phương pháp gây tê bề mặt tiền liệt tuyến
dưới hướng dẫn siêu âm, ban đầu chúng tôi chưa hoàn toàn tin tưởng phương pháp
vô cảm này nên chúng tôi cần có gây mê trợ giúp, về sau chúng tôi không cần trợ
giúp của gây mê nữa. Chúng tôi dùng vỏ kim sinh thiết nhỏ (18 G, 20 cm) bơm
thuốc tê từ mỏm, đến bề mặt tiền liệt tuyến, vùng đáy và bơm nhiều thuốc tê tại
vị trí nối của túi tinh và đáy, cách gây tê này chúng tôi áp dụng theo các tác
giả quốc tế(9).
Về cách lấy mẫu, đối với mỗi bên chúng tôi lấy 3 mẫu đầu như cách lấy 6 mẫu
nhưng thông thường, sau đó xoay đầu dò siêu âm về phía ngoại biên của tuyến
tiền liệt. Trước khi lấy mẫu chúng tôi thực hiện thăm khám thường qui bằng ngón
tay, sau đó khám siêu âm tiền liệt tuyến.
Về kích thước của tuyến tiền liệt của chúng tôi chiếm tới 85% các trường
hợp nhỏ hơn 50 gram. Kích thước có ảnh hưởng đến kết quả sinh thiết, Brawer và
cs(2) khả năng phát hiện giảm đáng kể khi kích thước của tuyến
tiền liệt > 55,5 gram. Trong một nghiên cứu khác có sự giảm có ý nghĩa khi
sinh thiết 6 mẫu khi kích thước tuyến tiền liệt lớn(8), chẳng hạn
Djavan và cs nói rằng nếu sinh thiết 6 mẫu cho bướu có kích thước lớn hơn 45
gram, trong trường hợp đó nếu sinh thiết lần đầu âm tính thì nên sinh thiết lại(3).
Về chỉ định sinh thiết của chúng tôi đa phần là do PSA cao, chỉ có 1 trường
hợp là do thăm trực tràng có bất thường. Điều này phản ánh có thể do các bác sĩ
niệu của bệnh viện chúng tôi bỏ qua thói quen thăm trực tràng ở bệnh nhân nghi
ngờ ung thư tuyến tiền liệt, mà điều này là bắt buộc. Thậm chí giá trị của thăm
trực tràng còn cao hơn giá trị PSA cao để mà chỉ định bệnh nhân đi sinh thiết
tuyến tiền liệt. Nhưng may mắn chúng tôi phát hiện được 1 trường hợp sarcoma
khi PSA = 2,45ng/ml ở bệnh nhân 26 tuổi thăm trực tràng có bất thường.
Về giá trị của PSA, theo hướng dẫn năm 2009 của hội niệu khoa Hoa kỳ(6) thì
không còn khái niệm mốc giá trị PSA là an toàn mà trước kia là 0,4 hoặc 0,2
ng/ml. Thiết nghĩ để cho việc chỉ định được đúng đắn chúng ta nên cập nhật
thường xuyên và liên tục những quan điểm mới những quan niệm mới về ung thư
tuyến tiền liệt.
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi bước đầu đánh giá tính khả thi của phương
pháp sinh thiết 12 mẫu so với trước đây 6 mẫu đơn thuần chỉ là về mặt kỹ thuật.
Chúng tôi thấy sinh thiết 12 mẫu khả thi, đau ít và chấp nhận được với cách gây
tê bề mặt tuyến tiền liệt qua siêu âm. Ít tai biến biến chứng và không khác so
với sinh thiết 6 mẫu. Theo khuyến cáo của các tác giả quốc tế về những ưu điểm
và tính khả thi về mặt kỹ thuật theo cách làm của chúng tôi, chúng tôi khuyến
cáo nên sinh thiết 12 mẫu một cách thường qui cho bệnh nhân Việt nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Brawer ML,(2002.)
"The influence of prostate volume on prostate cancer detection". Eur
Urol, 1: p. 35-9.
3. Djavan B, Zlotta AR,
Ekane S, Remzi M, and et all,(2000.) "Is one set of sextant biopsies
enough to rule out prostate Cancer? Influence of transition and total prostate
volumes on prostate cancer yield".European Urology, 38: p. 218.
4. Eichler K, Hempel S,
Wilby J, Myers L, Bachmann LM, and Kleijnen J,(2006.) "Diagnostic value of
systematic biopsy methods in the investigation of prostate cancer: a systematic
review". J Urol, 175(5): p. 1605-12.
5. Elabbady AA and Khedr
MM,(2006.) "Extended 12-core prostate biopsy increases both the detection
of prostate cancer and the accuracy of Gleason score". Eur
Urol, 49(1): p. 49-53.
6. Greene KL, Albertsen PC,
Babaian RJ, Carter HB, Gann PH, Han M, Ann Kuban D, Sartor AO, Stanford JL, and
C.P. Zietman A,(2009.) "Prostate Specific Antigen Best Practice Statement:
2009 Update".J Urol.
7. Hodge KK and
McNeal,(1989.) "Random systematic versus directed ultrasound guided
transrectal core biopsies of the prostate". Journal of
Urology: p. 71-75.
8. Karakiewicz PL, Bazinet M, and Aprikian
AG,(1997.) "Outcome of sextant biopsy according to gland volume ". Urology,
49(1): p. 55-59.
9. Nash PA, Bruce JE,
Indudhara R, and Shinohara K,(1996.) "Transrectal ultrasound guided
prostatic nerve blockade eases systematic needle biopsy of the prostate". J
Urol, 155: p. 607.
10. Norberg M, Egevad L,
Holemberg L, Sparen P, Norlen BJ, and Busch C,(1997.) "The sextant
protocol for ultrasound-guided core biopsie of the prostate underestimates the
presence of cancer". Urology: p. 562-566.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét