Thứ Tư, 9 tháng 4, 2014

XUẤT TINH SỚM

Xuất tinh sớm là nguyên nhân thường gặp nhất ở nam giới, có đến 50% nam giới XTS  ở một thời điểm nào đó trong đời nhưng chứng bệnh này thường có thể chữa khỏi.


Gọi là xuất tinh sớm khi người nam giới chưa muốn mà đã xảy ra, cảm thấy sắp xuất tinh là bị ngay, không kịp kìm giữ, nghĩa là quá sớm, có khi mới chỉ chuẩn bị giao hợp hay ngay khi vừa bắt đầu.

Xuất tinh sớm làm cho cặp bạn tình không được hưởng đầy đủ khoái cảm tình dục, nếu tái diễn nhiều lần có thể gây khó chịu, bực bội cho cả người nam lẫn nữ.

Xuất tinh sớm không phải là một chứng bệnh nghiêm trọng, 2 giai đoạn chính của quan hệ tình dục đều có (cương cứng và xuất tinh), chỉ có vấn đề về thời gian. Muốn kiểm soát xuất tinh đòi hỏi sự hiểu biết về thực hành tình dục: sự hòa hợp, tình yêu và thông cảm giữa đôi bạn tình là những yếu tố cần thiết để vượt qua khó khăn này.
Người trẻ rất dễ bị xuất tinh sớm, không nên cho rằng nghiêm trọng; nếu xảy ra xuất tinh sớm trong những lần giao hợp đầu tiên, đừng vội nghĩ ngay rằng đã bị bệnh. Đó chỉ là diễn biến bình thường có tính chất quá độ của những người trẻ: chưa có kinh nghiệm, lại mạnh mẽ về nhu cầu tình dục và dễ xúc động, vì thế khó kiểm soát được xuất tinh; trạng thái này chỉ là tạm thời, sẽ qua đi khi quen dần với bạn tình.

Nguyên nhân: trong đại đa số trường hợp, xuất tinh sớm có liên quan đến những lo lắng (trong nghề nghiệp, về điều kiện vật chất, chuyện gia đình, quan hệ vợ chồng...) hay nam giới có ham muốn quá mạnh hay lo sợ không làm tốt vai trò người chồng.

Dù là nguyên nhân gì thì việc trao đổi giữa cặp bạn tình (hay vợ chồng) vẫn cần thiết để có sự hợp tác trong chữa trị. Thủ dâm là để tạo ra cảm giác cực khỏi nhanh, lâu dài trở thành phản xạ xuất tinh nhanh, để phá bỏ phản xạ đó cũng cần phải kiên nhẫn luyện tập.

Cần làm gì? Chứng xuất tinh sớm sẽ càng dễ chữa nếu như bạn tình hiểu biết và hỗ trợ cả về mặt tình cảm và hành động thực tế.

Phương pháp do Master và Johson đề ra rất có hiệu quả nhưng cần kiên nhẫn, điều đầu tiên nam giới cần học là học cách nhận biết và kiểm soát cảm giác sắp xuất tinh. Thử trên chính bản thân bằng cách tự kích dục (thủ dâm), làm sao để tự mình đạt đến thời điểm sắp muốn xuất tinh thì dừng lại. Thư giãn rồi làm lại, mỗi lần như vậy càng tiến gần đến thời điểm không thể kiềm chế được.

Cần biết rằng xuất tinh là một đáp ứng sinh lý có tính phản xạ, diễn ra theo 2 giai đoạn: giai đoạn đầu (giai đoạn tăng áp lực tinh dịch) chỉ tăng cảm giác kích thích và có thể kiểm soát được; giai đoạn tiếp theo (giai đoạn xuất tinh) rất ngắn là lúc không thể kiềm chế được (giống như hắt hơi, lúc đầu có cảm giác muốn hắt hơi thì có thể kiềm chế được nhưng sau đó là lúc không thể kiềm chế được).

Học cách nhận biết sắp đến “điểm không thể rút lui” là mục tiêu của phương pháp Master và Johson, khi đó cần ngừng ngay kích thích để không dẫn tới xuất tinh.

Như vậy, phương pháp Master và Johson là sự tập dượt để trì hoãn xuất tinh, là cách lập lại một phản xạ xuất tinh mới, kéo dài hơn, phá bỏ phản xạ xuất tinh cũ, quá nhanh. Sau khi thử trên bản thân, thực hành với bạn tình có thiện chí giúp bạn khắc phục tình trạng xuất tinh sớm, cũng bằng cách kích thích chứ không giao hợp, dần dần bạn sẽ biết cách kéo dài thời gian đạt đến điểm “không thể rút lui”, bạn tình sẽ ngừng kích thích theo tín hiệu của bạn và bạn sẽ giảm hưng phấn.

Đừng vội giao hợp khi chưa học được cách kiểm soát xuất tinh, dù phương pháp có hiệu quả nhưng cũng cần thời gian luyện tập vài tuần, phản xạ không xuất tinh sớm càng được củng cố thì kết quả càng chắc chắn. Khi bắt đầu thử giao hợp thực sự thì nên chọn một tư thế dễ kiểm soát nhất (tức không bị kích thích nhiều), tùy theo mỗi người, có người chọn tư thế nam đứng, nữ chổng mông hoặc nam nằm dưới...

Những cách khác:

- Phương pháp “bóp nhẹ” vào đầu dương vật khi bạn tình nữ nhận được tín hiệu (bằng lời hay bằng động tác) là bạn sắp đến điểm “không thể rút lui” chỉ là một biến thể của phương pháp nói trên. Khi bóp nhẹ, máu ra khỏi dương vật nên giảm bớt cương cứng, bớt kích thích.

- Giảm kích thích ở vùng nhạy cảm nhất của nam giới: Vùng gây khoái cảm mạnh nhất của nam giới là ở quy đầu vì thế tránh di chuyển nhiều khi giao hợp, dễ gây xuất tinh. Chất gây tê tại chỗ (gel xylocain 2%) bôi vào quy đầu để giảm bớt kích thích; mang bao cao su hay thay đổi tư thế...

- Luyện tập nhóm cơ đáy chậu cũng hỗ trợ cho sự kiểm soát xuất tinh (bài tập Kegel): luyện tập nhóm cơ ở đáy chậu (nhóm cơ đi từ xương cụt đến xương vệ). Ví dụ như đang đi tiểu mà chủ động dừng lại để nước tiểu không chảy ra nữa, đó là nhờ tác động co rút của nhóm cơ cụt vệ. Hãy tập co rút như vậy lúc bình thường, ngoài lúc đi tiểu. Lúc đầu tập 10 lần, chậm rồi nhanh dần. Mỗi ngày tập nhiều lần, cho đến khi đạt được 200 lần. Với bài tập này, cùng với các vận động khác, sau 1-2 tháng khả năng kiềm chế sẽ tốt hơn.

9 cách điều trị xuất tinh sớm không sử dụng thuốc
Chắc hẳn các quí ông rất e ngại chuyện chưa lâm trận đã hết đạn? Tuy nhiên đây là vấn đề hoàn toàn có thể giải quyết một cách dễ dàng để điều trị bệnh xuất tinh sớm. Dưới đây là 9 lới khuyên của các cố vấn về tình dục sẽ giúp bạn cải thiện và chữa trị hoàn toàn vấn đề xuất tinh sớm.
Xuất tinh sớm là 1 trong Top 5 chứng bệnh được các nhà cố vấn tình dục điều trị.

Đàn ông muốn trì hoãn sự xuất tinh bởi 3 lý do chính sau:

- Ngăn cản tình trạng bối rối

- Tăng cường sự thoả mãn của bản thân

- Làm hài lòng bạn đời

Liệu trong vấn đề xuất tinh sớm có phương pháp nào khắc phục và điều trị mà không cần viện tới dược phẩm? Câu trả lời chắc chắn là "Có".
Phương pháp điều trị cho nguyên nhân gây xuất tinh sớm phổ biến nhất
80% đàn ông phải chịu đựng chứng xuất tinh sớm. Việc tìm hiểu nguyên nhân phổ biến nhất và cách điều trị xuất tinh sớm là bước đầu tiên và quan trọng nhất giúp bạn loại bỏ những lo lắng không cần thiết và tận hưởng "chuyện ấy". Nguyên nhân mà cánh nam giới thường phàn nàn là sự mong chờ phi hiện thực.
Cần điều trị xuất tinh sớm thế nào


Xuất tinh sớm tại sao bạn lại là những mong chờ điều trị nó?

Mong chờ phi hiện thực phổ biến là do hiểu biết không chính xác. Không có anh chàng nào chưa từng xem hoặc đọc những "chuyện người lớn"

Bạn bè khoe khoang về thời gian "yêu" lâu? Những bộ phim xxx mô tả hành vi thực liên tục trong khoảng 20-30 phút? Những ấn tượng đó không thể xoá mờ được và kể cả những người biết những gì trên phim là không đúng thì họ vẫn phỏng đoán rằng người phong độ tốt chỉ khi sự xuất tinh sớm xảy ra sau ít nhất 10-20 phút "lâm trận". Khát khao âm thầm ấy dẫn tới sự thất vọng, bất mãn kể cả ở những người bình thường. Điều đó có thể gây ra những lo lắng thái quá ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ thể chất như yếu ớt, đau nhức, suy nhược. 80% đàn ông bị chứng xuất tinh sớm phải chịu đựng áp lực do tự chẩn đoán sai bệnh lý của mình.

Thời gian bình thường cho "chuyện đó" là bao nhiêu?

Quy định trong việc điều trị xuất tinh sớm trong khoảng thời gian bình thường hoặc trước khi phía nữ "lên đỉnh"? Tuy nhiên, không có sự đồng tình nào trong giới y học về khái niệm "thời gian bình thường" hay thuật ngữ "thời gian phóng tinh tiềm tàng trong âm đạo".

điều trị xuất tinh sớm sử dụng thuốc

Phái mạnh cần lưu ý rằng thời gian bình thường từ lúc "thâm nhập" tới khi xuất tinh là 60-180 giây.

Sự khác nhau bình thường

"Yêu" liên tiếp lần 2 và 3 sẽ kéo dài hơn lần đầu. Những người hơn 60 tuổi có thể có IELT lâu hơn. Ham muốn càng cao thường dẫn tới xuất tinh nhanh hơn. Khi sex không được thường xuyên, mức độ ham muốn tăng cũng khiến người nam "đầu hàng" nhanh hơn

Những cách khắc chứng xuất tinh sớm

1. Phương pháp chữa bệnh xuất tinh sớm đầu tiên có một nguyên tắc vàng: Xuất tinh sớm có thể không gây phiền toái cho cả hai hoặc vấn đề ấy sẽ làm cả hai lo lắng hơn. Điều này cũng không ngạc nhiên khi các khách hàng không vui vẻ với phương pháp điều trị một mình mà muốn biết thêm nhiều phương pháp khác. Điều trị xuất tinh sớm bằng thuốc thế nào? Hiệu quả của nó ra sao? Đó là:

2. Điều trị xuất tinh sớm theo phương án 2: "Yêu solo" trước khi chính thức bước vào cuộc.

3. Giảm bớt kích thích tới "cậu nhỏ".

Sử dụng bao cao su. Một số đàn ông nói rằng họ "chinh chiến" được lâu hơn khi dùng 2 "áo mưa".

"Áo mưa" có thể là cứu cánh...
4. Không tách bạn tình ra ngay sau khi xuất tinh. Những động tác cọ xát dễ giúp cho vùng "tam giác yêu" được kích thích.

5. Tập các bài tập về cơ đáy chậu khoảng 20 nhịp/lần. Thực hiện 1-2 lần trong ngày.

Bạn có thể tưởng tượng bài tập như khi bạn buồn đi tiêu, nhưng không có toilet ở gần đó. Trong tình huống như vậy, bạn cần phải co cơ hậu môn. Lặp lại động tác co lại và thả lỏng cơ trong 2 phút mỗi ngày.

6. Xuất tinh sớm có nhiều lý do khác nhau. Đó có thể là những bất hoà trong mối quan hệ. Tuy nhiên, nhiều khi đối tác lãnh cảm lại có lợi cho phương pháp điều trị xuất tinh sớm vì ham muốn của bạn không lên quá cao.

7. Trong quá trình điều trị xuất tinh sớm, bạn không được cảm thấy thất bại hay chán nản nếu xuất tinh nhanh. Đây là một thủ phạm. Xuất tinh nhanh đồng nghĩa với ham muốn của bạn ở mức cao. Điều này không có gì là tồi tệ. Bạn thắc mắc mình vừa "vào trong" đã xuất tinh và không biết làm thế nào? Hãy đề nghị đối tác tiếp tục lại từ màn dạo đầu. Khi giai đoạn trơ lỳ của phản ứng giới tính nam qua đi, do ham muốn cao, sau vài lần người nam vẫn có thể quay về trạng thái "hiên ngang" được. Quan trọng là bạn có sẵn sàng cho lần 2 hay không.

Một điều lưu ý trong việc điều trị xuất tinh sớm là việc dành thời gian sau khi ân ái có khả năng tăng cường sự thoả mãn của người nữ cho dù bạn có làm lại hay không. Nó còn giúp bạn tránh được sự "yêu" miễn cưỡng sau đó.

8. Tăng cường tần suất "giao ban" để giúp chấm dứt tình trạng xuất tinh sớm. Ngược lại, nếu bạn lười "yêu", ham muốn tăng đồng nghĩa với xuất tinh sớm dễ xảy ra.

9. Áp dụng những tư thế khác nhau thay thay đổi vị trí giữa hai người. Tuy nhiên, không có bằng chứng cụ thể nào để xác minh điều đó. Thay đổi lối sống bao gồm cả những bài tập thể dục hữu ích cũng có thể mang lại tác dụng cho việc điều trị.

Nguồn: Xuất tinh sớm
TRÍCH DẪN THEO DƯỢC AN BÌNH 

Thứ Ba, 8 tháng 4, 2014

SINH THIẾT TUYẾN TIỀN LIỆT 12 MẪU QUA NGÃ TRỰC TRÀNG TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN




SINH THIẾT TUYẾN TIỀN LIỆT 12 MẪU qua trực tràng dưới hướng dẫn của siêu âm đã được thực hiện ở nhiều bệnh viện lớn trong cả nước. Dưới hướng dẫn của siêu âm qua trực tràng,bác sĩ có thể lấy được nhiều mẫu sinh thiết nghi ngờ, và hạn chế các tai biến có thể xảy ra một cách tối đa.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Có nhiều báo cáo trong y văn xem sinh thiết 12 mẫu là sinh thiết chuẩn để tầm soát ung thư tiền liệt tuyến. Nên chúng tôi giới thiệu những kinh nghiệm đầu tiên khi bắt đầu sinh thiết tiền liệt tuyến 12 mẫu tại bệnh viện chúng tôi.
Phương pháp: Có 41 bệnh nhân được chỉ định sinh thiết tiền liệt tuyến vì PSA cao (> 4 ng/ml) và/hoặc vì thăm trực tràng có bất thường. Chúng tôi tiến hành sinh thiết mỗi bên 3 mẫu như trong sinh thiết 6 mẫu, sau đó sinh thiết thêm mỗi bên 3 mẫu nữa về phía ngoại vị của tiền liệt tuyến.
Kết quả: Phát hiện được ung thư trong 9 trường hợp (17,07%), có 1 trường hợp high-grade PIN và 1 trường họp chảy máu trực tràng đáng kể, 1 trường họp tiểu máu đáng kể. Có 15 trường hợp nằm viện chờ đến khi có kết quả (7 ngày), các trường hợp còn lại nằm viện 1 ngày để theo dõi.
Kết luận: Biến chứng nhiễm trùng và biến chứng chảy máu trong sinh thiết 12 mẫu là thấp. Sinh thiết tiền liệt tuyến qua trực tràng 12 mẫu là khả thi trong bệnh viện của chúng tôi.
Từ khoá: Sinh thiết tiền liệt tuyến; Sinh thiết 12 mẫu tiền liệt tuyến; Sinh thiết 12 mẫu tiền liệt tuyến qua siêu âm trực tràng   
ABSTRACT
TRANSRECTAL EXTENDED 12-CORE PROSTATE BIOPSY AT BINH DAN HOSPITAL
Objective: To show our preliminary experiences over extended 12-core prostate biopsy method in our hospital.
Methods: This study included 41 patients who underwent extended 12-core biopsy. Inclusion criteria for prostate biopsy were elevated serum PSA levels (>4.0 ng/ml) and/or suspicious digital rectal examination (DRE). We acquired 3 cores from each side like sextant biopsy and another 3 additional cores from each side more peripheral than a 6 core.  
Results: Cancer was detected in 09 (17.07%), and one case with high- grade  PIN. There was one case of strong hematuria (2.43%) and strong rectal bleeding. There were 15 cases who were hospitalized for 7 days for waiting the result, and 26 patients who were hospitalized one day for follow-up.
Conclusion: Our infection and rectal bleeding complications associated with extended 12-core transrectal ultrasound-guided prostate biopsy were low. Extended 12-core prostate biopsy is feasible at our hospital and increases the detection rate of prostate cancer.
Key words: TRUS; Transrectal prostate biopsy; 12 core prostate biopsy; Extended prostate biopsy
GIỚI THIỆU
Sử dụng một cách rộng rãi PSA và sinh thiết qua ngã trực tràng làm gia tăng tần suất phát hiện ung thư tuyến tiền liệt ở giai đoạn sớm(10). Kể từ khi Hodge và cs(7) áp dụng sinh thiết tuyến tiền liệt  6 mẫu trong sinh thiết tuyến tiền liệt thì phương pháp này được áp dụng trong một thời gian dài. Tương tự ở Việt Nam sinh thiết tuyến tiền liệt cũng bắt đầu bằng 6 mẫu, như tại Trung tâm Medic qua ngã tầng sinh môn 6 mẫu, tại bệnh viện Bình Dân chúng tôi cũng bắt đầu sinh thiết 6 mẫu qua ngã trực tràng kể từ năm 2006. Nhưng có nhiều báo cáo gần đây, sinh thiết 6 mẫu không đủ phát hiện ung thư(1), và khuyến cáo nên sinh thiết nhiều mẫu hơn mà cụ thể là sinh thiết 12 mẫu mở rộng làm gia tăng sự phát hiện ung thư hay độ chính xác điểm Gleason(5). Như Eichler và cs tham khảo y văn để so sánh dựa trên tiêu chí sự gia tăng phát hiện ung thư và những biến chứng liên quan tới sinh thiết kết luận rằng khi sinh thiết thêm 6 mẫu nữa so với 6 mẫu truyền thống làm gia tăng tỷ lệ phát hiện ung thư thêm 31% và sinh thiết nhiều hơn 12 mẫu là không cần thiết, và tỷ lệ biến chứng không gia tăng khi tăng thêm mẫu(4).
Tại bệnh viện Bình Dân chúng tôi đã áp dụng phương pháp sinh thiết 6 mẫu như truyền thống, qua tham khảo một số tạp chí cũng như những hướng dẫn trên thế giới sự cần thiết của phương pháp sinh thiết 12 mẫu qua ngã trực tràng. Nên chúng tôi mạnh dạn thực hiện phương pháp này kể từ tháng 6 năm 2009.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Kể từ tháng 6 năm 2009 đến cuối tháng 9 năm 2009, có 41 bệnh nhân được chỉ định sinh thiết tuyến tiền liệt vì PSA cao hay vì thăm trực tràng có bất thường.
Kháng sinh phòng ngừa: kháng sinh ciprofloxacine 500 mg 1 viên sáng 1 viên chiều và Flagyl 250 mg 2 viên sáng 2 viên chiều trước sinh thiết 24 giờ. Thụt tháo bằng Fleet enema lúc 8 giờ sáng hôm sau.  
Tư thế bệnh nhân nằm nghiêng sang bên trái, gối co vào bụng. Sử dụng máy siêu âm Logic 5 Pro
Gây tê bằng: 4 ống lidocain 2% 2 ml pha loãng với 5 ml nước cất, thuốc tê được tiêm vào mô xung quanh tuyến tiền liệt bắt đầu từ mỏm đến 2 thùy bên và đặc biệt nhiều thuốc tê hơn vào chỗ tiếp giáp giữa túi tinh và tiền liệt tuyến.
12 mẫu được lấy theo mô hình như sau
Hình 1 Sơ đồ sinh thiết tuyến tiền liệt 12 mẫu qua trực tràng
Sau sinh thiết bệnh nhân được cho nằm viện 1 ngày để theo dõi các biến chứng có thể có
KẾT QUẢ
Tuổi trung bình là 70,17, PSA trung bình trước sinh thiết là 33,08 ng/ml (min = 2,45; max= 479,65). Kích thước trung bình của tuyến tiền liệt là: 38,29 gram. Chỉ định vì PSA cao : 40 trường hợp, trong đó chỉ định vì thăm trực tràng có bất thường 1 trường hợp. Chỉ có gây tê 35 trường hợp và có gây tê + tiền mê 7 trường hợp. Tỷ lệ phát hiện ung thư là: 9  carcinoma , 1 sarcoma và 1 trường hợp high- grade PIN
Biến chứng sau sinh thiết: không có trường hợp nào chảy máu trực tràng đáng kể: 1 trường  hợp kéo dài 3 ngày  và tiểu máu kéo dài: 2 trường hợp kéo dài 2 ngày.
Biểu đồ 1 Phân bố bệnh nhân theo tuổi
Trong đó ta có phần lớn bệnh nhân được chỉ định sinh thiết khi PSA > 10
Bảng 1 phân bố bệnh nhân, ung thư và chỉ số PSA
PSA (ng/ml)
Số lượng bệnh nhân
Số lượng ung thư
<4
1
1 (sarcoma cơ trơn)
4-10
6
0
>10
34
9

Biểu đồ 2 Tỷ lệ phần trăm của bướu lớn hay nhỏ hơn 50 gram
Biểu đồ 3 Phân bố ung thư theo Gleason score
BÀN LUẬN
Sinh thiết tuyến tiền liệt qua hướng dẫn siêu âm vẫn là xét nghiệm chuẩn cho chẩn đoán sớm ung thư tuyến tiền liệt. Sinh thiết 6 mẫu theo mặt phẳng trước-sau lần đầu tiên được giới thiệu bởi Hodge và cs(7). Tuy nhiên có những nghiên cứu gần đây cho thấy sinh thiết như vậy vẫn chưa đủ. Năm 1995 Stamey và cs(11) đề nghị sinh thiết vẫn là 6 mẫu nhưng nghiêng về  phía ngoại biên của tuyến tiền liệt, để có những  mẫu hơn của vùng ngoại vi nơi thường có ung thư. Tuy nhiên ngay cả có cải tiến như vậy nhiều tác giả thấy về lâm sàng còn sót tới 34% các trường hợp ung thư, và nên lấy nhiều mẫu hơn để tăng khả năng phát hiện ung thư.
Về kỹ thuật: Chúng tôi áp dụng phương pháp gây tê bề mặt tiền liệt tuyến dưới hướng dẫn siêu âm, ban đầu chúng tôi chưa hoàn toàn tin tưởng phương pháp vô cảm này nên chúng tôi cần có gây mê trợ giúp, về sau chúng tôi không cần trợ giúp của gây mê nữa. Chúng tôi dùng vỏ kim sinh thiết nhỏ (18 G, 20 cm) bơm thuốc tê từ mỏm, đến bề mặt tiền liệt tuyến, vùng đáy và bơm nhiều thuốc tê tại vị trí nối của túi tinh và đáy, cách gây tê này chúng tôi áp dụng theo các tác giả quốc tế(9).
Về cách lấy mẫu, đối với mỗi bên chúng tôi lấy 3 mẫu đầu như cách lấy 6 mẫu nhưng thông thường, sau đó xoay đầu dò siêu âm về phía ngoại biên của tuyến tiền liệt. Trước khi lấy mẫu chúng tôi thực hiện thăm khám thường qui bằng ngón tay, sau đó khám siêu âm tiền liệt tuyến.
Về kích thước của tuyến tiền liệt của chúng tôi chiếm tới 85% các trường hợp nhỏ hơn 50 gram. Kích thước có ảnh hưởng đến kết quả sinh thiết, Brawer và cs(2) khả năng phát hiện giảm đáng kể khi kích thước của tuyến tiền liệt > 55,5 gram. Trong một nghiên cứu khác có sự giảm có ý nghĩa khi sinh thiết 6 mẫu khi kích thước tuyến tiền liệt lớn(8), chẳng hạn Djavan và cs nói rằng nếu sinh thiết 6 mẫu cho bướu có kích thước lớn hơn 45 gram, trong trường hợp đó nếu sinh thiết lần đầu âm tính thì nên sinh thiết lại(3).
Về chỉ định sinh thiết của chúng tôi đa phần là do PSA cao, chỉ có 1 trường hợp là do thăm trực tràng có bất thường. Điều này phản ánh có thể do các bác sĩ niệu của bệnh viện chúng tôi bỏ qua thói quen thăm trực tràng ở bệnh nhân nghi ngờ ung thư tuyến tiền liệt, mà điều này là bắt buộc. Thậm chí giá trị của thăm trực tràng còn cao hơn giá trị PSA cao để mà chỉ định bệnh nhân đi sinh thiết tuyến tiền liệt. Nhưng may mắn chúng tôi phát hiện được 1 trường hợp sarcoma khi PSA = 2,45ng/ml ở bệnh nhân 26 tuổi thăm trực tràng có bất thường.
Về giá trị của PSA, theo hướng dẫn năm 2009 của hội niệu khoa Hoa kỳ(6) thì không còn khái niệm mốc giá trị PSA là an toàn mà trước kia là 0,4 hoặc 0,2 ng/ml. Thiết nghĩ để cho việc chỉ định được đúng đắn chúng ta nên cập nhật thường xuyên và liên tục những quan điểm mới những quan niệm mới về ung thư tuyến tiền liệt.
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi bước đầu đánh giá tính khả thi của phương pháp sinh thiết 12 mẫu so với trước đây 6 mẫu đơn thuần chỉ là về mặt kỹ thuật. Chúng tôi thấy sinh thiết 12 mẫu khả thi, đau ít và chấp nhận được với cách gây tê bề mặt tuyến tiền liệt qua siêu âm. Ít tai biến biến chứng và không khác so với sinh thiết 6 mẫu. Theo khuyến cáo của các tác giả quốc tế về những ưu điểm và tính khả thi về mặt kỹ thuật theo cách làm của chúng tôi, chúng tôi khuyến cáo nên sinh thiết 12 mẫu một cách thường qui cho bệnh nhân Việt nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.       Brawer MK,(1999.) "Prostate specific antigen: current status". CA Cancer J Clin: p. 264-268.
2.       Brawer ML,(2002.) "The influence of prostate volume on prostate cancer detection". Eur Urol, 1: p. 35-9.
3.       Djavan B, Zlotta AR, Ekane S, Remzi M, and et all,(2000.) "Is one set of sextant biopsies enough to rule out prostate Cancer? Influence of transition and total prostate volumes on prostate cancer yield".European Urology, 38: p. 218.
4.       Eichler K, Hempel S, Wilby J, Myers L, Bachmann LM, and Kleijnen J,(2006.) "Diagnostic value of systematic biopsy methods in the investigation of prostate cancer: a systematic review". J Urol, 175(5): p. 1605-12.
5.       Elabbady AA and Khedr MM,(2006.) "Extended 12-core prostate biopsy increases both the detection of prostate cancer and the accuracy of Gleason score". Eur Urol, 49(1): p. 49-53.
6.       Greene KL, Albertsen PC, Babaian RJ, Carter HB, Gann PH, Han M, Ann Kuban D, Sartor AO, Stanford JL, and C.P. Zietman A,(2009.) "Prostate Specific Antigen Best Practice Statement: 2009 Update".J Urol.
7.       Hodge KK and McNeal,(1989.) "Random systematic versus directed ultrasound guided transrectal core biopsies of the prostate". Journal of Urology: p. 71-75.
8.       Karakiewicz PL, Bazinet M, and Aprikian AG,(1997.) "Outcome of sextant biopsy according to gland volume ". Urology, 49(1): p. 55-59.
9.       Nash PA, Bruce JE, Indudhara R, and Shinohara K,(1996.) "Transrectal ultrasound guided prostatic nerve blockade eases systematic needle biopsy of the prostate". J Urol, 155: p. 607.
10.   Norberg M, Egevad L, Holemberg L, Sparen P, Norlen BJ, and Busch C,(1997.) "The sextant protocol for ultrasound-guided core biopsie of the prostate underestimates the presence of cancer". Urology: p. 562-566.
11.   Stamey TA,(1995.) "Making the most out of six systematic sextant biopsies". Urology, 45(1).

Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014

NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP VIÊM PHÚC MẠC TOÀN THỂ DO THỦNG HỒI TRÀNG DO XƯƠNG CÁ

Bệnh nhân nam, 57 tuổi, đau bụng âm ỉ từng cơn ở nhà 3 ngày, đau lan từ thượng vị đến quanh rốn và hố chậu P. Đến ngày thứ 4 thì đau nhiều toàn bụng đặc biệt là bụng phải nên vào viện.
Ghi nhận ban đầu: ngày 4/4/2014, sinh hiệu ổn, sốt 39 độ C, đau bụng phải và hố chậu phải.
Chẩn đoán ban đầu ở cấp cứu: Viêm ruột. Bệnh nhân được chuyển vào khoa Nội Cán bộ.
9h00 ngày 5/4/2014, Bác sĩ khoa Nội cán bộ mời Ngoại tổng quát khám với chẩn đoán Viêm ruột thừa.
Bác sĩ Thi (ngoại tổng quát) khám chẩn đoán: Viêm phúc mạc ruột thừa. Và chỉ định mổ nội soi cấp cứu.
Kíp mổ Bs Thuyết - Bs Thi và Bs Tiến(gây mê)
Vào trocart rốn, đưa camera nội soi vào ổ bụng thấy dịch mủ đục toàn bụng, các quai ruột chướng hơi. Vào tiếp 2 trocart hố chậu trái và hạ vị phải. Kiểm tra ruột thừa bình thường, dạ dày bình thường. Có một đoạn hồi tràng dài khoảng 25cm bị viêm dày nhưng không thấy tổn thương.
Kíp mổ hội chẩn đưa ra các giả thuyết:
1. Viêm phúc mạc nội khoa
2. Viêm tụy cấp
3. Thủng mặt sau dạ dày
4. Thủng hồi tràng do dị vật hoặc do lao
Quyết định chuyển mổ hở tìm nguyên nhân: chọn đường mổ trắng giữa trên dưới rốn đủ tối thiểu để kiểm tra toàn bộ các tạng trong ổ bụng. Kiểm tra dạ dày và  tụy bình thường. Kiểm tra đoạn hồi tràng viêm thấy một đốm giả mạc nhỏ cách góc hồi manh tràng # 70cm nghi thủng ruột, thăm dò và khâu mũi chữ X vùi. Kiểm tra toàn bộ đoạn hồi tràng viêm không thấy thêm bất thường nào khác. Kiểm tra ruột đến dưới chỗ thủng khoảng 20cm phát hiện một dị vật dạng que tăm nhọn 2 đầu trong lòng ruột. Xẻ hồi tràng một lỗ lấy ra dị vật xương cá nhọn 2 đầu, khâu mũi chữ X vùi chổ mở ruột. Lau rửa ổ bụng. Đóng bụng.
XẺ THÀNH RUỘT LẤY DỊ VẬT XƯƠNG CÁ TỪ LÒNG RUỘT

DỊ VẬT XƯƠNG CÁ
Hậu phẫu bệnh nhân ổ định, trung tiện sau 24h, vận động sớm 12h, ăn nhẹ sau 24h, dẫn lưu rút sau 72g.
Bàn luận:
Đây là một trường hợp không hiếm gặp trong cấp cứu bụng, tuy nhiên cách nhận định và xử trí không phải lúc nào cũng hợp lý và cho kết quả tốt.
Về chẩn đoán trước mổ và quyết định mổ là chính xác và kịp thời: Viêm phúc mạc ruột thừa.
Tuy nhiên vấn đề nhận định trong mổ và đưa ra quyết định nên tiếp tục mổ nội soi và kết thúc bằng đặt dẫn lưu nếu nghĩ rằng đó là Viêm phúc mạc nội khoa / hay chuyển mổ mở để tìm nguyên nhân là quyết định mang tính then chốt của kíp mổ.
Theo tôi, quyết định chuyển mổ mở của kíp mổ căn cứ vào những phân tích sau:
1. Bệnh nhân trẻ, không có tiền sử bệnh tim mạch (suy tim, THA, bệnh mạch vành), bệnh suy thận, hô hấp (viêm phổi, lao), bệnh tiêu hóa(viêm tụy, sỏi mật, viêm đại tràng)... nên khó có khả năng viêm phúc mạc nội khoa.
2. Thủng dạ dày nguyên tắc phải mổ mở để tìm
3. Viêm tụy cấp cũng có chỉ định mổ mở tương đối trong trường hợp này.
4. NGUYÊN TẮC CỦA MỔ NỘI SOI KHÔNG TÌM ĐƯỢC NGUYÊN NHÂN THÌ PHẢI MỔ MỞ ĐỂ TÌM.
Và quyết định mổ mở đã được kíp mổ thống nhất. Và kết quả tìm được dị vật trong lòng ống tiêu hóa cũng là một điều THẦN KỲ! Xuất phát từ suy nghĩ đã có lỗ thủng phải có dị vật, và nên tìm dị vật theo hướng lưu thông của nội dung trong ống tiêu hóa.
CÁC BÀI HỌC ĐƯỢC RÚT RA:
1. NGUYÊN TẮC CỦA MỔ NỘI SOI KHÔNG TÌM ĐƯỢC NGUYÊN NHÂN THÌ PHẢI MỔ MỞ ĐỂ TÌM.
2. PHẢI TÌM CHO ĐẾN CÙNG NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH, KHÔNG ĐƯỢC CHỦ QUAN, HAY PHỎNG ĐOÁN
3. PHẢI NẮM VỮNG KIẾN THỨC VÀ SUY LUẬN ĐÚNG CÁCH.

Thạc sỹ - Bác sĩ NGUYỄN ĐẶNG ĐÌNH THI